– Tính bền vững bao gồm sản xuất và sử dụng bền vững từ các khía cạnh môi trường, xã hội và kinh tế cũng như mức hiệu quả năng lượng cao nhất mà công nghệ hiện tại cho phép.
Để đạt được mục tiêu này, cùng với mỗi trụ cột của tính bền vững, các điều kiện nêu trong Bảng 2 phải được thỏa mãn trong quá trình sản xuất và sử dụng. Các vấn đề của phát triển bền vững đều dựa trên hệ thống. Câu trả lời cho những thách thức địa phương không thể được cung cấp nếu không có kiến thức về bối cảnh rộng lớn hơn của phát triển toàn cầu.
Những thay đổi chỉ có thể lâu bền nếu nền kinh tế bền vững được thực hiện. Nền kinh tế bền vững có khả năng huy động được các nguồn lực mới, do đó có khả năng mở rộng các nguồn lực. Trong một xã hội, nhà nước phải đáp ứng và bảo đảm các nhu cầu thực tế của người dân. “Trái đất có thể thỏa mãn nhu cầu của mọi người, nhưng không thể thỏa mãn lòng tham của tất cả mọi người. Ngày nay, có đủ lương thực cho tất cả cư dân trên thế giới; mọi người sẽ có đủ nếu phân phối bình đẳng. Tuy nhiên, 900 triệu người bị đói mỗi ngày và 2 tỷ người bị suy dinh dưỡng mãn tính. Hàng năm, 18 triệu người chết vì các bệnh liên quan đến đói (Magda, 2013).
Có thể khẳng định một cách tự tin rằng nếu ô nhiễm đến mức nghiêm trọng trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, nó sẽ có tác động tiêu cực trực tiếp đến điều kiện sản xuất (chi phí) và cả mức độ tiêu dùng (giảm phúc lợi). Do đó, vì lợi ích của chính mình, một nhà nước phải hoàn thành các quy định kinh tế giúp tạo ra hệ thống bền vững của các mối quan hệ giữa con người và tự nhiên cũng như giữa kinh tế và môi trường.
Wackernagel và Rees (2001) báo cáo rằng: Phân tích dấu chân sinh thái là một công cụ tính toán cho phép ước tính nhu cầu tiêu thụ tài nguyên và xử lý chất thải của một dân số hoặc nền kinh tế xác định được đo trong không gian đất đai màu mỡ.
Mỗi con người và xã hội chiếm một số không gian trên bề mặt Trái đất bằng cách tạo ra những hàng hóa cần thiết để duy trì sự sống, và bằng cách để quá trình tự nhiên thải ra các chất thải. Kích thước của khu vực này được đo bằng dấu chân sinh thái. Việc so sánh dấu chân sinh thái với sức chứa sinh học (đất sẵn có) là phù hợp. Sự khác biệt giữa sức chứa sinh học và dấu chân sinh thái là sự thiếu hụt sinh thái, điều này giải thích mức độ hoạt động của chúng ta được truyền lại cho các thế hệ tương lai.
Gebhardt (2006) đã tích hợp vào mô hình các yếu tố liên quan mà dựa trên các nghiên cứu của ông ở Đức, có tác động đáng kể đến tiêu dùng bền vững. Theo mô hình, bốn nhóm yếu tố đều có ý nghĩa:
+ Yếu tố bên ngoài: nơi mua thực phẩm hữu cơ, sản phẩm sinh thái phổ biến.
Xem thêm Quy trình cấp chứng nhận thực phẩm hữu cơ của Úc – NASAA
+ Các yếu tố tài chính: thu nhập, tỷ trọng thực phẩm hữu cơ được mua, giá cao cấp cảm nhận của chúng.
+ Các yếu tố nhận thức và cá nhân: động cơ để lựa chọn các sản phẩm sinh thái, độ nhạy cảm với rủi ro, nhận thức về sức khỏe trong các quyết định mua thực phẩm, cũng như nhận thức và niềm tin vào tính xác thực của sản phẩm.
+ Tác động xã hội: ảnh hưởng của các nhà lãnh đạo quan điểm, ảnh hưởng của môi trường trước mắt, việc bảo vệ trẻ em bằng thực phẩm hữu cơ. Sự cần thiết phải có một mô hình phát triển mới đã được công nhận vào giữa những năm 1980. Liên Hợp Quốc tuyên bố thập kỷ phát triển thứ hai và thứ ba là một thất bại vì họ đã chứng tỏ không thể phá vỡ chu kỳ đói nghèo vốn diễn ra ở các nước đang phát triển tồi tệ nhất và nghèo nhất trên thế giới.
Ngày nay, tình hình về mặt này rất tồi tệ. Sự cân bằng sẽ yêu cầu 1,5 Trái đất và kích thước của vùng đất cho thấy tính không bền vững đang tăng lên nhanh chóng (với tốc độ phát triển hiện tại, dự kiến sẽ cần 2,4 Trái đất vào năm 2050). Người tiêu dùng có thể giúp đỡ tình hình bằng cách đưa ra các lựa chọn một cách có ý thức, nhưng nhận thức về môi trường vẫn còn rất yếu.
Một trong những bài học của cuộc khủng hoảng năng lượng đầu những năm 1970 là nhiên liệu truyền thống, chủ yếu là hóa thạch khan hiếm và hạn chế, do đó việc sử dụng chúng đòi hỏi tính hợp lý rất cao. Chúng ta phải cố gắng làm quen với các nguồn năng lượng mới và tái tạo và việc sử dụng chúng, đồng thời liên tục cải thiện cán cân ngoại thương. Việc quản lý hợp lý các nguồn năng lượng và tăng hiệu quả sử dụng năng lượng là đặc biệt quan trọng liên quan đến cạnh tranh. Khả năng cạnh tranh quốc tế của một quốc gia có nghĩa là – trong số những thứ khác – các nguồn lực và tài sản sẵn có được quản lý như thế nào trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu.
3. Câu hỏi thường gặp

Xin chào chúng mình là Gen Z. Thế hệ tuổi trẻ Gen Z chúng mình chia sẻ cho nhau những bài viết bổ ích giúp nhằm mục đích phi lợi nhuận và cùng nhau phát triển bản thân về cả tri thức lẫn tinh thần. Nếu bạn đam mê viết lách và chia sẻ câu chuyện cá nhân của bạn trên nền tảng internet hãy gửi tin nhắn đến cho chúng mình cùng gia nhập cộng đồng cùng nhau học hỏi và chia sẻ kiến thức nhé